CỰU SINH VIÊN K16 LÂM HỌC ĐHLN VN.

CỰU SINH VIÊN K16 LÂM HỌC ĐHLN VN.
NGƯỜI ĐƯA TIN K16 LÂM HỌC

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

MẶT BUỒN NHƯ MẤT SỔ GẠO.

Bài này gồm các phần sau :
1/Thời bao cấp.
2/Triển lãm về thời bao cấp.
-Hình ảnh thời bao cấp : Mua nhu yếu phẩm, Tem phiếu, Cuộc sống hàng ngày.
- VIDEO : Chuyện thời bao cấp.
- Những câu chuyện thời bao cấp.
3/ Vũ khí cưa gái thời bao cấp.

     ”Thời bao cấp”,đó là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa.Hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người.Chế độ bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc từ trước năm 1975, "thời kỳ bao cấp" còn được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986, tức là trước thời kỳ Đổi mới.
   Đó là” miền quá khứ “ không thể nào quyên, một thời đọng lại trong lòng bao người những nghĩ suy.
2/Triển lãm về thời bao cấp
     Tại triển lãm "Việt Nam 25 năm trên đường đổi mới 1986-2011 qua tài liệu lưu trữ", khai mạc sáng 8/12/2011 tại Bảo tàng Hồ Chí Minh (Hà Nội), có trưng bày nhiều hình ảnh hiện vật về thời kỳ này.Hà Nội cũng tổ chức triển lãm” Cuộc sống người Hà Nội thời bao cấp (1975-1986/1990)”T.S Mai Thành Sơn - thư ký dự án trưng bày Cuộc sống người Hà Nội thời bao cấp (1975-1986/1990) cho biết: “Mong muốn gạch nối thời bao cấp với những người trẻ, nên khi thực hiện đề cương trưng bày, chúng tôi không chỉ tiếp cận những thế hệ đã đi qua thời kỳ bao cấp, mà còn tiến hành nhiều cuộc trò chuyện với các bạn trẻ, dành nhiều công sức vào việc tìm hiểu các bạn trẻ muốn biết gì về một thời gian khó của những thế hệ đi trước”. Một cửa hàng lương thực cũ kỹ đã được phục dựng ở lối vào không gian trưng bày, phía trên là câu trích dẫn chủ đề của một thời nhưng quen thuộc với nhiều thời: “Mặt buồn như mất sổ gạo”...
  Hình ảnh thời bao cấp :
a/Mua nhu yếu phẩm

Chờ tới lượt mình được phân phối vải vóc.
Xếp hàng mua bia hơi.
Mua hàng tết.
Cảnh xếp hàng mua thực phẩm cạnh Nhà hát Lớn Hà Nội..
Cảnh xếp hàng chờ đến lượt mua chất đốt..
Cảnh chen lấn tại một cửa hàng mậu dịch.


Hòn đá dùng để giữ chỗ, xếp hàng khi mua thịt, gạo,của ông Mai Xuân Hải , 62 tuổi - Viện Hán Nôm.
Nhân viên cửa hàng ăn vận kiểu mậu dịch viên thời bao cấp (quần đen, áo trắng).

Mua bia hơi.
b/Tem phiếu 


Trong thời kỳ bao cấp, các mặt hàng từ chất đốt.....cho tới cả vải vóc, phụ tùng xe đạp... đều dùng tem phiếu. mỗi loại tem phiếu lại ghi rõ số lượng hàng hóa có thể được mua, như 0,2 - 0,5 - 1 mét vải. Vải của nam, nữ cũng được quy định trong tem phiếu.Gia đình có trẻ em sẽ được phát phiếu mua sữa, phiếu mua đường.Còn phụ nữ nông thôn có phiếu bồi dưỡng dành cho người sinh con.Tất cả các nhu yếu phẩm đều được phân phối đinh lượng trên cơ sở: cấp cán bộ, nhân dân, loại hình lao động, giới tính, độ tuổi …Mỗi khi bán nhân viên cửa hàng cắt bớt đi một ô tương ứng số lượng đã mua.Sổ mua lương thực hay còn gọi là sổ gạo, thời kỳ này viên chức Nhà nước chỉ được mua 13,5kg/1 tháng. Thuật ngữ ‘buồn như mất sổ gạo’ xuất hiện từ đây: Mất sổ gạo còn quan trọng hơn cả việc mất tiền vì có tiền cũng không mua được gạo, dù là gạo đỏ, đầy thóc và sạn! Tem lương thực có thể đổi lấy các loại lương thực như: gạo, sắn, ngô, khoai tây, hạt lúa mỳ... với trọng lượng tương đương ghi trên tem.














c/Cuộc sống hàng ngày



Xe đạp có biển đăng ký tại cảnh sát giao thông.
Đưa con đi nhà trẻ.
Đài điện tử món hàng sa sỉ mơ ước của bao người.
Xe đạp Phượng Hoàng TQ


Giấy đăng ký sử dung máy thu thanh


Một đám cưới miền quê.


Một đám cưới rước dâu bằng xe đạp.

7
Một nghề để sống.
Một nghề để sống.
Chú rể hãnh diện với chiếc xe đạp Diaman Đức.
VIDEO : Chuyện thời bao cấp:





Những câu chuyện thời bao cấp





* Giáo sư Văn Như Cương 
   Vào mt bui trưa nng, Giáo sư Văn Như Cương đp xe t trường v nhà. Qua ca hàng mu dch Cu Giy (Hà Ni), ông cht thy có rt nhiu ph n đng xếp hàng trước quy. Trông vẻ mặt ai cũng hớn hở, thấy lạ, giáo sư dừng xe lại hỏi: "Các chị xếp hàng mua gì đấy?" Một chị nhận ra nhà giáo nên nhanh nhẩu: "Xếp hàng mua dao cạo râu thầy ạ!".
      Hỏi thêm vài câu mới biết, thì ra hôm nay cửa hàng mậu dịch có đợt hàng dao cạo râu mới về nên mở cửa bán theo tiêu chuẩn cho mỗi người một cái. Có người xếp hàng mua hộ chồng, có người là "con phe" mua ra ngoài để bán lại kiếm lời.
       Giáo sư Cương vội chen chân bước lại gần quầy hàng, mấy chị em phụ nữ cũng nhường lối cho ông. Đến nơi, ông nói với cô mậu dịch viên: "Cô làm ơn bán cho tôi một hộp?". Cô mậu dịch viên trố mắt: "Mỗi người chỉ được mua một cái". "Cô cứ bán cho tôi một hộp!".Lần này cô mậu dịch viên tỏ vẻ khó chịu: "Đã bảo chỉ được mua một cái. Anh mua một hộp để mang ra ngoài bán à?"Giáo sư Cương nhẹ nhàng chỉ vào mặt mình: "Cô trông tôi có giống bọn đầu trộm đuôi cướp, hay dân phe chợ đen không? Râu tôi nhiều thế này, chưa cạo dạo đã mòn rồi. Không lẽ cạo một bên, trừ lại một bên?".Lúc này mấy người đằng sau cũng kêu lên: "Đúng đấy! Bán cho ông ấy đi!".
Kết quả, giáo sư Cương đã được cô mậu dịch viên bán cho một hộp dao cạo râu.
     

* Ông Ngô Đức Thịnh, 63 tuổi, Giáo sư - Tiến sĩ Dân tộc học, P 912, A6 - Giảng Võ).
“Mua được gạo, về nhà vội mở ra xem, thấy gạo không có mùi mốc là tôi lâng lâng sung sướng suốt cả ngày”


Câu chuyện của ông Phùng Duy Mận, 66 tuổi, Trung tá công an, nghỉ hưu, ở tại 123 Hàng Buồm.
“Thi bao cp, tôi có đôi dép nha Tin Phong, không đi va nhưng cũng không dám bán s mang tiếng. Khi đi công tác vào Huế, tôi bán được năm nghìn rưỡi, mua được mt cái vé máy bay ra Bc.Nó giá tr như thế cơ mà!”.



Bà Lê Thị Thắng, 64 tuổi, nguyên cán bộ Ban tuyên huấn Thành ủy Hà Nội, số 11, ngõ 31, phố Vĩnh Phúc)
      Đứng trước cửa hàng lương thực, hình dung đến cảnh “Mua gạo và thực phẩm là hai thứ phải chen lấn, xô đẩy, xếp hàng dài . Hầu như ở cửa hàng nào, ngày nào cũng có chuyện cãi nhau, con người với nhau dường như không còn tình gì hết.Dòng người xếp hàng cứ chen từ từ thế này, nhưng chỉ cần một người chen ngang là xô đẩy bẹp cả ruột, rất sợ!”, cứ ngỡ rằng thời bao cấp mọi khó khăn được chia đều trong xã hội.Nhưng khi nghiền ngẫm cơ chế phân phối thời bao cấp với cửa hàng lương thực, hệ thống tem phiếu và quầy hàng tết ở cuộc trưng bày, mới hay rằng nhân dân có tiêu chuẩn riêng và ở mức thấp nhất, tiêu chuẩn của cán bộ, công nhân, viên chức tùy thuộc vào vị trí công tác và đặc thù nghề nghiệp của mỗi người có tiêu chuẩn riêng và ở mức cao hơn.
      Cán bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản, trung cấp - tại phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng Dung và Kim Liên; còn cán bộ, công nhân, viên chức bình thường và nhân dân mua ở các cửa hàng rải rác trong thành phố.
      Vậy nên, sau ngày giải phóng hoàn toàn đất nước, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng có một thời gian sống và làm việc ở Hà Nội, mới kể lại rằng đã có không biết bao nhiêu “ca dao” chung quanh cửa hàng Tôn Đản, cửa hàng Quốc tế, chợ Đồng Xuân..., cái thì của “vua quan”, cái thì của “trung gian nịnh thần”, cái thì của “thương nhân” và cuối cùng mới đến cái của “nhân dân anh hùng”…
      Trong cuộc trưng bày, có tái hiện không gian sống của gia đình ông Phạm Trạng (1926), bác sĩ phụ trách chăm sóc sức khỏe cho các cán bộ cấp cao của Đảng và bà Đặng Thị Kim Sơn (1931), bác sĩ ở Bệnh viện Việt - Xô.
       Cả hai ông bà đều được hưởng chế độ bìa C dành cho cán bộ trung cấp. Lúc bấy giờ, tiểu khu Trung Tự là thế hệ chung cư thứ hai của thủ đô Hà Nội được xây dựng khoảng những năm 1970 (sau khu Nguyễn Công Trứ và khu Kim Liên) và có nhiều cải tiến so với trước.Mỗi căn hộ có 2 phòng với diện tích được tính toán để phù hợp với một gia đình theo chế độ phân phối 4 – 5 m2/người, gồm 2 loại: 24m2 và 28 m2 cùng khu phụ (bếp, nhà xí, nhà tắm) tạo thành một căn hộ “khép kín”.Ngoài ra, xung quanh tiểu khu còn có các công trình phục vụ công cộng như: trường học (nhà gửi trẻ, trường mẫu giáo, trường học cấp I, II), cửa hàng bách hóa, cửa hàng thực phẩm... rất thuận tiện cho các nhu cầu của cuộc sống.
      Vì vậy, một căn hộ chung cư lắp ghép khi đó vừa là biểu tượng của phương thức sống mới ở đô thị, vừa là biểu tượng của sự sang trọng. Sở hữu một căn hộ là niềm mơ ước của các cán bộ viên chức một thời.Năm 1975, gia đình ông Trạng có 7 nhân khẩu (mẹ bà Sơn, vợ chồng ông bà và 4 người con đang là sinh viên) được Nhà nước cấp cho căn hộ chung cư 28m2 này.
     Mặc dù không phải đối mặt nhiều với những khó khăn về vật chất, nhưng ông bà Trạng – Sơn cũng phải tìm mọi cách để cải thiện cuộc sống bằng cách chăn nuôi lợn, gà, chim cút... trong khu công trình phụ như nhiều gia đình công chức bình thường khác.
      Đến năm 1982, 2 người con của ông bà lập gia đình và cùng ở trong căn hộ này, và những bi hài kịch của 4 thế hệ cộng sinh với các vật nuôi trong một không gian chật hẹp bắt đầu…“Có một lần buổi sáng đi làm, đóng cửa chuồng lợn không kỹ, lợn vào buồng ngủ phá phách, ỉa đái hết cả ra nhà.Bực thì có bực nhưng sợ nhất “Thủ trưởng” lợn ốm. Chồng ốm, con ốm còn tống cho mấy viên thuốc chứ “Thủ trưởng” đã ốm là thiệt hại về kinh tế, là dở khóc dở cười”, bà Kim Sơn, nay đã 75 tuổi, kể lại như vậy.Còn ông Phạm Trạng, nay đã 80 tuổi, thì nói “Người ở chung với súc vật, phân gà phân lợn, hôi thối kinh khủng. Mình là bác sĩ mình biết điều đó là mất vệ sinh nhưng vì cuộc sống nên phải chấp nhận”.Hỏi về kỷ niệm đáng nhớ thời bao cấp, bà Sơn không ngần ngại nói: “Con lợn đầu tiên xuất chuồng được 78 cân. Lúc đấy, mình sướng lắm, chưa khi nào trong đời lại tưởng tượng có một số tiền lớn như thế”.
    “Nghẹt thở” - Rời không gian sống của gia đình ông Trạng, tôi lại đứng ngẩn ngơ trước những hiện vật về quản lý xã hội của một thời.
    Này đây là tấm “giấy ủy quyền” từ năm 1978 đã ố vàng của anh Trần Thắng, công tác ở Đoàn 871, Tổng cục Chính trị, uỷ quyền cho vợ là chị Nguyễn Thị Sinh được dùng cái đài Na-ti-ô-nan của anh khi anh đi công tác xa nhà, và đề nghị Ban đại diện tiểu khu nơi anh chị cư trú chứng nhận anh chị là vợ chồng, để căn cứ vào đó Công ty Bách hoá thành phố…bán pin cho vợ anh sử dụng đài.
     Đây nữa là chiếc xe đạp Thống nhất cũ mòn mà ông Lê Gia Thụy (65 tuổi, nghỉ hưu, số 8, ngách 12/21, ngõ 12, phố Lương Khánh Thiện) từng phải có thành tích một năm chiến sĩ thi đua mới được mua.Sau khi mua xe, ông Thuỵ phải mang xe, hóa đơn, hộ khẩu, chứng minh thư đến Công an khu phố để đăng ký, đợi 1-2 ngày họ cấp giấy chứng nhận sở hữu và biển số xe.
Lúc đó ông hay phải làm thêm giờ nên cơ quan còn yêu cầu phải đăng ký số khung xe trên giấy chứng nhận làm ngoài giờ để họ dễ quản lý...
    Phải sống - Bao cấp là một thời gian khó với cơ chế quản lý kinh tế - xã hội không thích hợp gây ra sự thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần; sức sản xuất bị kìm hãm, xã hội trì trệ; con người bị hạn chế trong sáng tạo và không có sự lựa chọn trong thụ hưởng.“Nhưng đến với cuộc trưng bày, người xem cũng có dịp biết đến những câu chuyện cảm động khác về những ước mơ giản dị, về sự năng động, sức sáng tạo vô biên của người dân nhằm thoát ra khỏi thảm cảnh nghèo đói.Người ta luôn biết cách xoay xở và tìm đủ mọi cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình cốt để làm sao tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống” - T.S Mai Thành Sơn nói như vậy.
         Trong đó, phổ biến là việc tăng gia sản xuất, chăn nuôi lợn, gà, trồng rau và làm thêm các dịch vụ và nghề thủ công. Đặc biệt, việc nuôi lợn không chỉ diễn ra ở khu vực các hộ gia đình có điều kiện về không gian mà đối với cả nhiều hộ sinh sống trên những căn hộ tập thể cao tầng.
Đã có nhiều biện pháp khắc phục tình trạng thấp kém về điều kiện sinh hoạt, thiếu thốn về hàng hóa tiêu dùng, và được tái hiện phần nào trong cuộc trưng bày, như: lộn cổ áo sơ mi, píc-kê, đổi ống quần trước ra sau, lộn xích xe đạp, quấn lốp xe mòn bằng dây cao su, chế tạo ra máy phát điện bằng rô-to quay tay, máy tăng điện áp v.v..
“Cái khó ló cái khôn”- Cuộc sống của người Hà Nội lúc đó, thật đúng với câu thành ngữ này. Anh Nguyễn Quốc Hùng, 44 tuổi, ngõ 286, Đội Cấn, kể lại:
“Từ năm 1974, khi bố tôi về hưu và học được công thức chế mực, gia đình tôi bắt đầu làm nghề bơm mực bút bi. Một ngày trung bình gia đình tôi bơm được 30 chiếc các loại. Bộ dùi để tách bi khỏi ngòi là quý giá nhất. Vì tôi đã phải dành rất nhiều thời gian để chuốt từ lò xo hoặc tanh xe đạp. Đối với loại bút ngòi cong của Trung Quốc, tôi dùng dây phanh xe đạp hoặc dây đàn ghi ta loại nhỏ nhất”.
      Chị Phan Thị Kim Thanh, 43 tuổi, thợ may, 492, phố Hoàng Hoa Thám, cho biết: “Trong suốt những năm 80, nhờ quen biết, mẹ tôi mua được nhiều vải vụn phân phối. Cả gia đình tôi đã chắp ghép các mảnh vải vụn đó, may gia công thành vỏ chăn, gối thậm chí cả quần áo lót.Vì có nghề may nên thỉnh thoảng tôi cũng giúp bà con hàng xóm lộn cổ áo sơ mi hay quay ống quần”. Theo bà Lê Thị Mai, 61 tuổi, giáo viên, số 20, ngõ 189/2, Giảng Võ, thì “may có nghề luyện kim - đan, móc len - đã cứu vớt đời sống chị em giáo viên chúng tôi”.
     Danh sách hiện vật, phần ước mơ của người dân thủ đô thời bao cấp thật bình dị, đó là: chiếc tivi vỏ đỏ; Quạt con cóc/quạt tai voi; Xe đạp pơ-giô; Xà phòng Camay; áo lông Đức; Lọ Peniciine đựng mì chính; Đôi dép nhựa Tiền Phong; Quả Trứng; Búp bê Liên Xô.
Được ăn một bát cơm ngon, gạo không bị mốc; được đi một cái xe đạp Trung Quốc; được sở hữu một chiếc quạt nhỏ làm dịu bớt sự tù túng và nóng nực; được tắm bằng xà phòng thơm... là những điều luôn luẩn quẩn trong tâm trí của mỗi người. Ngay cả những niềm vui đơn giản đó cũng nằm ngoài tầm với.
      Cuộc trưng bày có hai hiện vật từ thời bao cấp nhưng đến nay vẫn còn gần như mới nguyên, đó là chiếc xe đạp Pơ giô và cái áo lông Đức.
      Chuyện về hai hiện vật này như sau: “Tôi tiết kiệm mãi mới mua được cái xe đạp Pơ-giô. Một hôm, thằng cháu nội lấy xe để tập. Nó bị ngã làm trầy xước sơn. Tiếc xe quá, cả ngày không ăn được cơm.Hôm sau, đóng xe vào hộp cất đi luôn nên bây giờ xe vẫn còn mới” (Bà Nguyễn Thị Bạn, 74 tuổi, cán bộ xã Quảng An, nghỉ hưu, 233 Âu Cơ);
  “Áo lông Đức hồi đấy giá trị mấy chỉ vàng.Vợ tôi đi Đức, mang được cái áo về, các đồng nghiệp cứ đòi mua lại nhưng tôi không bán. Một phần vì đó là tài sản có giá trị; một phần vì là kỷ niệm của gia đình; và đó là niềm hãnh diện của đàn ông thời đó” (Ông Nguyễn Thành Dưng, 65 tuổi, đại tá quân đội, nghỉ hưu, số 1 ngách 291/42/26 Lạc Long Quân).
   
3/Vũ khí cưa gái thời bao cấp:


Một yêu anh có may-ô
Hai yêu anh có cá khô ăn dần
Ba yêu rửa mặt bằng khăn
Bốn yêu anh có hai quần để thay...

a/Trang phục:
     Mũ Cối Trung Quốc là một vũ khí lợi hại, chỉ bởi vì nó rất đắt, biểu hiện đẳng cấp. Những năm 80 nó có giá 80 đồng, bằng một chỉ vàng. Khi cao điểm lên tới 150 đồng, gần bằng 02 chỉ. Thời đó đi dép tông Lào, mặc quần bò Thái, áo bay Liên Xô, đeo đồng hồ Seiko, đội mũ cối thì có thể tán đổ cả hoa hậu.




b/Xe :
    Xe đạp là cả một gia tài. Ai có xe đạp thì đương nhiên kẻ đó không thể gọi là nghèo. Một chiếc xe đạp mất cả làng, cả khu phố đều biết. Xe sang nhất là xe Peugeot-“Đẹp trai đi bộ không bằng mặt rỗ đi Lơ”, xe Lơ là xe Peugeot (Sau này là xe máy Mobylette). Xe Favorite sang trọng thứ nhì, sau Peugeot: ” Làm trai cho đáng nên trai/ có Pha vơ rít, có đài đeo vai”.
    Trước 1970, sang trọng và quí phái số 1 là xe Babeta, nó còn quí hiếm gấp nhiều lần xe mercedez bây giờ. Ngay cả Bộ trưởng cũng khó lòng mua được chiếc xe này. Đó là xe của bậc đại gia số 1 của Hà Nội và các thành phố lớn.


Favorit từ thời bao cấp, made in CZECHOSLOVAKIA..
Xe đạp Trung Quốc  Phượng Hoàng (Phoenix) và Vĩnh Cửu (Forever). Có thể nói đây là hai mác xe huyền thoại ngày xưa ở miền Bắc
Xe đạp Peugeot (Pơ giô) là một tài sản quý hiếm là niềm mơ ước của bao người.

Xe máy Peugeot  của Pháp. Chiếc xe này thường được gọi là xe Lơ, đã đi vào dân gian một cách rất hóm hỉnh nhưng cũng đầy thực tế “Đẹp trai đi bộ không bằng mặt rỗ đi Lơ”.
Thập niên 1970, xe Babeta của Tiệp Khắc lên ngôi.
       Sau 1980 là thời đại của Honda, đầu tiên là Honda cup 50. Khi đó lập tức truyền tụng câu: ” Một trăm lời nói không bằng ống khói Hon đa”. Cup 70, một “vũ khí giết gái hàng loạt”. Đến nỗi nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo phải kêu lên:“Bây giờ yêu nghĩa là vèo xe cúp/ Xe đạp anh xịt lốp cả tư mùa.”  Xe cup 82 đời chót, kim vàng giọt lệ là thứ vũ khí nguy hiểm cuối cùng của thời bao cấp, không có vũ khí nào nguy hiểm như vũ khí này.
c/Dép:
      Dép đúc Trung Quốc được coi là một loại dép sang. Thời mà người ta đi chân đất, guốc mộc và dép cao su xỏ bốn quai thì ai đi dép đúc đều được coi là dân quí phái. Đây là loại dép được cấp phát cho bộ đội vượt Trường Sơn hành quân vô Nam. Đi dép này không sợ bị sút quai dọc đường, về sau trở thành mode sang trọng của thanh niên tỉnh lẻ miền Bắc trong chiến tranh.

Dép đúc Trung Quốc được coi là một loại dép sang
Dép nhựa Tiền Phong - Hải Phòng.
Dép lê nhựa Tiền Phong - Hải Phòng
      Ở Hà Nội và Hải Phòng thì dép nhựa Tiền Phong mới đúng là mode. Nhiều người suốt thời trai trẻ, chưa khi nào có được một đôi dép nhựa Tiền Phong. Muốn có để đi tán gái thì phải đi mượn.Sau chiến tranh thì dép Tông Lào mới thực sự là mode sang trọng, dép có đế càng dày càng sang.
d/Trang sức:
      Bút cũng là một vũ khí tán gái có hiệu quả. Trong ảnh bút nắp trắng là bút Hồng Hà, nắp vàng là bút Kim Tinh. Các loại khác là bút Trường Sơn. Bút Kim Tinh trước 1975 là là một vật trang sức đắt giá, chỉ có dân giàu có mới có loại bút này. Chỉ cần giắt cái bút Kim Tinh vào túi áo trên, chưa cất lời mắt nàng đã long lanh… thấy thương!

Đồng hồ Pôljot Liên Xô là một loại vũ khí đắc địa để tấn công các cô gái xinh đẹp. Trước 1975 đồng hồ poljot Liên Xô tuồng như là khát vọng cháy bỏng của các chàng trai. Có nó thì không cần phải nhiều lời, chỉ cần đưa tay lên xem đồng hồ là tim nàng đã rung rinh. Anh nào giàu có mua tặng nàng chiếc đồng hồ Poljot nữ thì cuống tim nàng đứt ngay lập tức, nàng đổ cái rầm.
POL JOT NGA

POL JOT NGA

POL JOT NGA NỮ
Đồng hồ  Selko
Đồng hồ Seiko chạy tự động, không phải lên giây, lại hiện ra thứ, ngày, tháng… thật quá sang trọng.
Một yêu anh có sen kô
hai yêu anh có Pơ giô cá vàng)
Tờ tiền “ Mười đồng” mới cứng, Không thể thiếu đó là 1 vũ khí hiệu quả cao, chỉ cần 1 tờ này đút trong túi ngực áo phin trắng đi chơi với bạn gái thì cầm chắc phần thắng.