Sáng nay, 24/11/2012 Hồng Duyên gửi Email cho Thìn báo tin bạn Lưu Chí Bảo ( Bảo Lỗ - Cao Bằng ) đã vào Nam tư cán. Tuy rất bận, nhưng vẫn nhớ ghé thăm chớp nhoáng các bạn ở Vũng Tàu. Xin trích một đoạn tin báo của Hồng Duyên và vài tấm ảnh kèm theo :
Bảo (lời) đến VT chiều ngày 22/11/2012 từ 16h30 đến 20h30 về Sài gòn ngay, hình ảnh vui vẻ, nhộn nhịp, ồn ào, bận bịu công việc kinh doanh điện thoại xin ý kiến chỉ đạo tíu tít cứ như là
Thủ tướng. Ào một cái rồi lại tĩnh lặng. Đủ thứ truyện nhưng có
vẻ vẫn còn nhiều và vẫn không quên việc họp lớp ở Cao Bằng, cũng điểm qua một tý. Thế đấy.
Thấy Bảo bận rộn như thế thật đáng mừng. Chúc Bảo luôn đồng hành cùng thắng lợi.
Dạy học được coi là một nghề cao quý trong
những nghề cao
quý. Nghề dạy học có vai trò then chốt
trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại. Thế giới ngày nay có
hàng chục triệu Thày , Cô giáo. Năm 1957 tại thủ đô Warszawa của Ba Lan, hội
nghị của Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo dục (FISE) đã quyết định lấy ngày
20/11 làm Ngày Quốc tế hiến chương các nhà giáo. Sau này, ngành giáo dục Việt
Nam cũng lấy ngày 20/11 hằng năm là Ngày nhà giáo Việt Nam.
Tuy nhiên, ngày lễ tôn vinh các Thày, cô
giáo ở mỗi nước được tổ chức vào những ngày khác nhau .
Ở Hàn Quốc Ngày nhà giáo được tổ chức hằng năm vào ngày 15/5 từ năm
1963. Ngày nhà giáo Hàn Quốc được chọn theo ngày một nhóm thanh niên là thành
viên hội chữ thập đỏ đã đến thăm những thầy cô giáo cũ của họ bị ốm phải nằm
trong bệnh viện.
Ở Malaysia, ngày
nhà giáo được tổ chức hằng năm vào ngày 16/5.
Ở Ba Lan, ngày nhà giáo hằng năm được tổ chức vào
ngày 14/10, còn gọi là Ngày giáo dục Quốc gia Ba Lan. Ngày nhà giáo Ba Lan được
lấy theo ngày vua Ba Lan Stanisoaw Poniatowski đã thành lập ra Ủy ban giáo dục
quốc gia vào năm 1773.
Ở Mỹ, Ngày nhà giáo Quốc gia ở Mỹ được tổ chức
vào ngày thứ Ba trong Tuần lễ Tôn vinh các Nhà giáo (Teacher Appreciation
Week), là trọn tuần đầu tiên trong tháng Năm hằng năm.
Ở Peru Ngày nhà giáo được tổ chức hằng năm vào 6/7. Đây là ngày vào năm 1822, sau khi
giành được độc lập từ Tây Ban Nha, anh hùng dân tộc của Peru Jose de San Martin
đã thành lập trường học đầu tiên dành cho những người bình dân.
Ở Chile,
ngày nhà giáo được tổ chức hằng năm vào ngày 16/10. là ngày thành lập Trường Sư
phạm Chile (Colegio de Profesores de Chile).
Ở Nga lấy ngày 5 tháng 10 hàng năm là ngày hiến chương các nhà
giáo. Trước năm 1994, người Nga thường lấy ngày thứ sáu đầu tiên của tháng 10
làm ngày nhà giáo.
Ở Trung Quốc chọn ngày 10 tháng 9 hàng năm là ngày hiến
chương nhà giáo của mình. Ngày nay, nhiều người Trung Quốc muốn chuyển ngày lễ
này sang ngày 28 tháng 9 là ngày sinh của Khổng Tử.
Thái Lan thông qua quyết định chọn ngày 16
tháng 1 hàng năm là ngày nhà giáo Thái Lan. Ngày nhà giáo đầu tiên được tổ chức
vào năm 1957.
Ở Việt nam mỗi khi tới tháng 11, hầu như mỗi
chúng ta đều nghĩ về những người thầy giáo cô giáo đã dạy cho ta đạo đức, văn
hoá, kiến thức chuyên môn, tri thức mọi mặt, để chúng ta có một hành trang bước
vào đời.Mỗi thành công hôm nay, nhờ rất nhiều vào sự chỉ dạy của thày cô ngày
xưa ấy. Đã có nhiều áng văn thơ, tác phẩm nghệ thuật, tượng đài, đền thờ tôn
vinh các thày cô giáo ngoài đời và trong lòng mỗi người. Có lẽ vẫn chưa đủ và
không bao giờ đủ.
Thày đồ làng.
Nhà
giáo ngày xưa, đều là những nho sỹ hoặc không đỗ đạt, hoặc chán cảnh quan trường
về làng dạy học. Một số ít tài cao đức rộng, được mời dạy học cho con Vua,
Chúa, quan quyền. Ngày xưa việc in ấn, truyền thông không có hoặc rất hạn chế
nên việc truyền thụ kiến thức đều phụ thuộc vào thầy. Thày gần như là kênh duy
nhất truyền đạt kiến thức. Muốn thành vinh danh, nên nghiệp lớn đều phải nhờ thầy.
Các thày xưa rất chú trọng giữ gìn nhân cách đạo đức, lối sống theo hình mẫu của
người quân tử trong triết lý tư tưởng Nho giáo. Một hình mẫu được gần như cả xã
hội trân trọng.Nhiều người thày xưa là tấm gương sáng về lòng yêu nước thương
dân, về đạo đức nhân cách trong cuộc sống. Tất cả những điều đó làm cho người
thày xưa được vinh danh quý trọng, kính cẩn ở mọi nơi, mọi lúc,trong mọi tầng lớp
xã hội.
Xin kính cẩn đề danh một số thày
trong các thày xưa đáng kính :
Tượng thờ Thày Chu Văn An, ở Văn Miếu Hà Nội.
Thày
Chu Văn An - Cuộc đời thanh bạch và tiết
tháo của Thày là tấm gương sáng của thời phong kiến Việt Nam. Thày là một trong số
rất ít bậc hiền nho được thờ ở Văn Miếu .Sự nghiệp của Thày được ghi lại trong
văn bia ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Tượng thờ Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thày
Nguyễn Bỉnh Khiêm -Thày được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của
một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều ( Lê – Mạc phân tranh) cũng như
tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.
Hình Thày Nguyễn Đình Chiểu.
Thày
Nguyễn Đình Chiểu - một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù
tối và gặp lúc biến loạn mà vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Thày không chỉ là
người con có hiếu, người thầy mẫu mực, mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại
nhiều tác phẩm có giá trị.
Ngày nay kinh tế, văn hoá, khoa hoc, giao lưu
truyền thông phát triển mạnh mẽ. Nó kéo theo nhu cầu cuộc sống đa dạng, chuẩn đạo
đức, tư duy, giao lưu phong phú đa chiều. Tất cả cùng tác động tới nghành giáo
dục nhà trường, các thày cô giáo, học trò, gia đình và xã hội. Bức tranh giáo dục
không còn đơn giản như xưa nữa mà là một bức tranh đẹp, rực rỡ nhiều màu sắc,
thật đáng mừng.
Trong
các cựu sinh viên k16 lâm học ĐHLN VN cũng có nhiều người đứng trong đội ngũ
các Thày Cô giáo góp phần không nhỏ vào việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng
cao cho ngành lâm nghiêp.
Nhân
ngày nhà giáo, xin kính cẩn gửi lời chúc tất cả các Thày Cô giáo khắp mọi miền
đất nước, trong ngành lâm nghiệp, là cựu sinh viên K16 lâm học ĐHLN VN luôn mạnh
khoẻ, vui vẻ, hạnh phúc , thành đạt trong sự nghiệp vinh quang của mình.
Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất
của lịch sử cũng như văn hoá Việt Nam trong
thế kỷ 16. Thày được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà
giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc Triều ( Trịnh – Nguyễn phân tranh ) cũng như
tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều
nhà Mạc Thày được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới
Trình Quốc Côngmà
dân gian quen gọi Thày là Trạng Trình .Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh và suy tôn Thày là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn. Người đời coi
Thày là nhà tiên tri số một trong lịch sử
Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ Thày và
gọi chung là Sấm Trạng Trình.Thày
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ
Việt Nam một cách có ý thức nhất
thông qua các văn tự của Thày còn lưu lại đến ngày nay. Học trò của Thày có
người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu
Khánh, Nguyễn Quyền.
A/THƠ VĂN CỦA THÀY
Thày Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị. giàu chất
liệu hiện thực, tính triết lý sâu xa của thời cuộc. truyền đạt cho đời một
đạo lý đối nhân xử thế: đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng
giềng.
Xin giới thiệu một số bài thơ của Thày :
1/Khôn
dại Ở đời có dại mới nên
khôn,
Chớ dại ngu si, chớ quá khôn.
Khôn được ích mình đừng để dại.
Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn.
Khôn mà hiểm độc là khôn dại.
Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn.
Chớ cậy mình khôn cười kẻ dại.
Gặp thời dại cũng hoá nên khôn...
2/Của nặng hơn người
Ðời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không, nào thiết hỏi,
Sau vào gánh nặng, lại vui cười.
Anh anh, chú chú, mừng hơn hớn,
Rượu rượu, chè chè, thế tả tơi.
Người của, lấy cân ta thử nhắc,
Mới hay rằng của nặng hơn người.
3/Cảnh Nhàn... Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chỗ lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao.
4/Có phúc có phần Trời sinh, trời ắt đã dành phần,
Tu hãy cho hiền, dạ có nhân.
Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ.
Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần.
Bạo hung chỉn đã gươm mài đá.
Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân.
Chớ có hại nhân mà ích kỷ.
Giấu người, khôn giấu được linh thần.
5/Thói Đời
Vụng khéo nào ai chẳng có nghề.
Khó khăn phải lụy đến thê nhi.
Ðược thời, thân thích chen chân đến.
Thất thế, hương lân ngoảnh mặt đi.
Thớt có hôi tanh, ruồi muỗi đậu.
Gan không mật mỡ, kiến bò chỉ.
Ðời nay những trọng người nhiều của.
Bằng đến tay không, mấy kẻ vì.
6/Thói Đời II Thế gian biến đổi vũng nên đồi.
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử.
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân thực.
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.
Ở thế mới hay người bạc ác.
Giàu thì tìm đến khó tìm lui.
7/Dĩ Hòa Vi Quý
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu.
Làm chi cho có sự đôi co.
Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn.
Ðây rằng đây phải, đấy không thua.
Duật nọ hãy còn đua với bạng.
Lươn kia hầu dễ kém chi cò.
Chữ rằng: Nhân dĩ hòa vi quý.
Vô sự thì hơn, kẻo phải lo.
8/Khuyên nhủ người đời Chớ chê người ngắn cậy ta dài.
Hơn kém dù ai cũng mặc ai.
Vị nọ có bùi, không có ngọt.
Mùi kia chầy thắm, lại chầy phai.
Ðã hay phận định, đành yên phận.
Dẫu có tài hay, chớ cậy tài.
Quân tử ngẫm xem nơi xuất xử.
Ắt là khôn hết cả hòa hai.
B/ Sấm Trạng Trình.
Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết ra được những lời tiên tri trong
tập Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng Trình. Sấm Trạng Trình được người đời xem như là một lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về tương lai. Có rất nhiều điểm trùng khớp với lịch sử. thể
hiển cái tài, cái uy của Thày với đời, cũng là cái tài của người đời diễn dịch.
Dẫu thế nào, cũng là tinh hoa văn hoá Việt, rất đáng trân trọng, kính phục. Cuối cùng, những lời sấm của Thày cũng vẫn quay trở về với ý
nghĩa sâu xa như ngay trong lời cảm đề Thày đã viết: “Bí truyền cho con cháu -
Dành hậu thế xem chơi”- Mọi ý nghĩa sâu xa hơn xin để độc giả suy ngẫm!
Xin trân trọng giới thiệu một số “Sấm Trạng
Trình“
1/“Sấm” cho nhà Mạc, nhà Nguyễn,
nhà Trịnh.
Là một người thày lớn, Thày Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò của Thày, người theo nhà Mạc,
người theo nhà Lê. Ngoài triều Lê, Mạc, cả họ Trịnh, họ Nguyễn, những người thuộc
các phe đối lập, cũng đều tôn kính Thày, thường xin ý kiến Thày về nhiều vấn đề hệ
trọng. Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho tất cả. Họ đều thấy sự chỉ dẫn của Thày là
đúng, nên Thày được xem như bậc đại hiền, một ông trạng tiên tri...
a/ Nhà Mạc :
Lúc nhà Mạc sắp mất liền
sai người đến hỏi Thày. Thày đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc rằng: “Cao Bằng tàng tại,
tam đại tồn cô”. Nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được 3 đời. Qủa
nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng thì tồn tại được thêm 3 đời.
b/ Nhà Nguyễn :
Ấy là năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh là
Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, bèn sai người đến hỏi Thày, khi ấy Thày đã 77 tuổi
đang ở ẩn tại am Bạch Vân. Thày không nói không rằng, cầm tay sứ giả dắt
ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và bảo: “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung
thân”, nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được. Hiểu được ngầm ý ấy,
Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất
Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, nhờ đó mà dựng nên nhà Nguyễn ở phương Nam. Sau
này, nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Thày thành: “Hoành sơn nhất đái vạn đại
dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi nhưng quả đúng như lời sấm ban
đầu của Thày, nhà Nguyễn chỉ có thể dung thân ở dải Hoành sơn chứ không thể
tồn tại mãi mãi, nên triều đại nhà Nguyễn đã chấm dứt vào năm 1945.
c/ Nhà Trịnh :
Triều đại
thứ 3 cùng tồn tại khi ấy là nhà Trịnh, khi vua Lê Trung Tông mất không có người nối dõi,
Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Thày
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thày không nói năng
gì mà dẫn sứ giả ra chùa thắp hương bảo: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm giống cũ
mà gieo”. Rồi Thày lại sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ
phật thì ăn oản”, ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn. Trịnh Kiểm
nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa
lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông.
Về sau
con cháu chúa Trịnh nhiều lần muốn đoạt ngôi vua Lê, nhưng Thày đều khuyên can
khéo: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong ". Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành
chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm. Vì thế mà có câu: Lê tồn, Trịnh
tại.
Tuy nhà Lê suy nhược, nhà Trịnh
tóm thâu mọi quyền hành nhưng không có Lê, Trịnh không đứng vững được. Quả
nhiên, đời vua Chiêu Thống ngai vàng Lê mất thì dòng Trịnh cũng chẳng còn ngôi
chúa nữa.
2/ Những
lời tiên tri: a/Truyện
kể lại rằng :
Trước khi qua đời,Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt
trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy
đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy
là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở
tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của Thày Trạng
Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi
xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:
"Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn
(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi
Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta) Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử
tế.
b/Truyện kể rằng :
Đời Vua Minh Mạng (1820 - 1840) trong dân gian lưu truyền
một câu sấm: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương" (đời thứ hai Gia
Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mạng vốn tính đa nghi. Biết được mấy
câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương
lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Trình. Nguyễn
Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi
tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống.
Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh
giấy đề chữ:
"Minh
Mệnh thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền thì lại làm đền Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai". Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đình,
xin làm lại đền thờ Trạng Trình.
c/ Có giai thoại kể rằng: Tổng đốc Hải Dương có lần về thăm quê
Trạng Trình. Trong lúc đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có
nguy cơ sụp lở, quan xem xét cẩn thận mới biết là mộ của thân phụ Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vị quan Tổng đốc hết sức ngạc nhiên bởi Trạng Trình là thầy
lý số hàng số 1 mà sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này, ông bèn bàn bạc với con
cháu Trạng Trình và quyết định di dời lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm ý muốn sửa
lại lỗi xưa của Trạng Trình. Nào ngờ khi đào đến gần hộp quách, phát hiện thấy
có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: “Bát thập niên
tiền khi chung vũ tả. Bát thập niên hậu khí nhập ư trung”, Nghĩa là: "Tám mươi
năm trước khí tốt bên trái. Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong!"