Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012

BẢO LÃI VÀO NAM.

    Sáng nay, 24/11/2012 Hồng Duyên gửi Email cho Thìn báo tin bạn Lưu Chí Bảo ( Bảo Lỗ - Cao Bằng ) đã vào Nam tư cán. Tuy rất bận, nhưng vẫn nhớ ghé thăm chớp nhoáng các bạn ở Vũng Tàu. Xin trích một đoạn tin báo của Hồng Duyên và vài tấm ảnh kèm theo :
    
        Bo (li) đến VT chiu ngày 22/11/2012 t 16h30 đến 20h30 v Sài gòn ngay, hình nh vui v, nhn nhp, n ào, bn bu công vic kinh doanh đin thoi xin ý kiến ch đo tíu tít c như là Th tướng. Ào mt cái ri li tĩnh lng. Đ th truyn nhưng có v vn còn nhiu và vn không quên vic hp lp Cao Bng, cũng đim qua mt tý. Thế đy.






    
 Thấy Bảo bận rộn như thế thật đáng mừng. Chúc Bảo luôn đồng hành cùng thắng lợi.

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

40 NĂM MỘT CHẶNG ĐƯỜNG.





                        Tặng các bạn K16 Lâm Học

Mỗi người, mỗi ngả, mỗi quê
Không hẹn mà gặp cùng về bên nhau
Tựu trường, trăng lạnh cuối thu
Trường đang sơ tán chiến khu đông triều


Vào trường vắng vẻ đìu hiu
Cuộc sống thời chiến còn nhiều khó khăn
Ngày đầu được gọi sinh viên
Tâm hồn bay bổng những miền xa xôi


Ăn tập thể, ngủ chung giường
Nhà tranh, vách đất giảng đường ước mơ
Học văn hóa, môn cơ bản


Toán tích phân, hóa hữu cơ, phân tích
Lý đại cương chất rắn, lỏng, bay hơi


Nắng mưa, gió rét hai mùa
Học tập, rèn luyện đi vào chuyên môn


Điều tra, Lâm học, cây rừng …
 Trèo đèo lội suối, không ngừng thi đua


 Năm năm ba tám lần thi
Một lần tốt nghiệp đến khi ra trường


Hợp rồi, nay lại phải tan
Mỗi người, mỗi ngả bạn bè chia tay
Người ở Bắc, kẻ vào Nam
Lạng Sơn anh ở, Cà Mau em chờ


Thoáng qua một quãng thời gian
40 năm ấy vui buồn nhớ nhung
Cũng bằng chừng ấy ước mơ
Người thành đạt, kẻ bơ vơ tội tình


Có người bỏ dở chặng đường
Buồn vui còn nhớ chiến trường năm xưa
Thương cho những bạn dở dang
Niềm vui chưa tới đã toan về già


Nay ta lên chức ông bà
Hơn thua chi nữa chỉ là vu vơ
Chỉ mong có dịp gặp nhau
Hàn huyên một thuở, một thời sinh viên
                       Anh Tới – 11/2012

DẠY HỌC MỘT NGHỀ CAO QUÝ.



         Dạy học được coi là một nghề cao quý trong những nghề cao quý. Nghề dạy học có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại. Thế giới ngày nay có hàng chục triệu Thày , Cô giáo. Năm 1957 tại thủ đô Warszawa của Ba Lan, hội nghị của Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo dục (FISE) đã quyết định lấy ngày 20/11 làm Ngày Quốc tế hiến chương các nhà giáo. Sau này, ngành giáo dục Việt Nam cũng lấy ngày 20/11 hằng năm là Ngày nhà giáo Việt Nam.

       Tuy nhiên, ngày lễ tôn vinh các Thày, cô giáo ở mỗi nước được tổ chức vào những ngày khác nhau .
     Ở Hàn Quốc Ngày nhà giáo được tổ chức hằng năm vào ngày 15/5 từ năm 1963. Ngày nhà giáo Hàn Quốc được chọn theo ngày một nhóm thanh niên là thành viên hội chữ thập đỏ đã đến thăm những thầy cô giáo cũ của họ bị ốm phải nằm trong bệnh viện.
      Ở Malaysia, ngày nhà giáo được tổ chức hằng năm vào ngày 16/5.
     Ở Ba Lan, ngày nhà giáo hằng năm được tổ chức vào ngày 14/10, còn gọi là Ngày giáo dục Quốc gia Ba Lan. Ngày nhà giáo Ba Lan được lấy theo ngày vua Ba Lan Stanisoaw Poniatowski đã thành lập ra Ủy ban giáo dục quốc gia vào năm 1773.
     Ở Mỹ, Ngày nhà giáo Quốc gia ở Mỹ được tổ chức vào ngày thứ Ba trong Tuần lễ Tôn vinh các Nhà giáo (Teacher Appreciation Week), là trọn tuần đầu tiên trong tháng Năm hằng năm.
     Peru Ngày nhà giáo được tổ chức hằng năm vào 6/7. Đây là ngày vào năm 1822, sau khi giành được độc lập từ Tây Ban Nha, anh hùng dân tộc của Peru Jose de San Martin đã thành lập trường học đầu tiên dành cho những người bình dân.
      Ở Chile, ngày nhà giáo được tổ chức hằng năm vào ngày 16/10. là ngày thành lập Trường Sư phạm Chile (Colegio de Profesores de Chile).
     Ở Nga lấy ngày 5 tháng 10 hàng năm là ngày hiến chương các nhà giáo. Trước năm 1994, người Nga thường lấy ngày thứ sáu đầu tiên của tháng 10 làm ngày nhà giáo.
    Ở Trung Quốc  chọn ngày 10 tháng 9 hàng năm là ngày hiến chương nhà giáo của mình. Ngày nay, nhiều người Trung Quốc muốn chuyển ngày lễ này sang ngày 28 tháng 9 là ngày sinh của Khổng Tử.
    Thái Lan thông qua quyết định chọn ngày 16 tháng 1 hàng năm là ngày nhà giáo Thái Lan. Ngày nhà giáo đầu tiên được tổ chức vào năm 1957.

     Ở Việt nam mỗi khi tới tháng 11, hầu như mỗi chúng ta đều nghĩ về những người thầy giáo cô giáo đã dạy cho ta đạo đức, văn hoá, kiến thức chuyên môn, tri thức mọi mặt, để chúng ta có một hành trang bước vào đời.Mỗi thành công hôm nay, nhờ rất nhiều vào sự chỉ dạy của thày cô ngày xưa ấy. Đã có nhiều áng văn thơ, tác phẩm nghệ thuật, tượng đài, đền thờ tôn vinh các thày cô giáo ngoài đời và trong lòng mỗi người. Có lẽ vẫn chưa đủ và không bao giờ đủ.

Thày đồ làng.
          Nhà giáo ngày xưa, đều là những nho sỹ hoặc không đỗ đạt, hoặc chán cảnh quan trường về làng dạy học. Một số ít tài cao đức rộng, được mời dạy học cho con Vua, Chúa, quan quyền. Ngày xưa việc in ấn, truyền thông không có hoặc rất hạn chế nên việc truyền thụ kiến thức đều phụ thuộc vào thầy. Thày gần như là kênh duy nhất truyền đạt kiến thức. Muốn thành vinh danh, nên nghiệp lớn đều phải nhờ thầy. Các thày xưa rất chú trọng giữ gìn nhân cách đạo đức, lối sống theo hình mẫu của người quân tử trong triết lý tư tưởng Nho giáo. Một hình mẫu được gần như cả xã hội trân trọng.Nhiều người thày xưa là tấm gương sáng về lòng yêu nước thương dân, về đạo đức nhân cách trong cuộc sống. Tất cả những điều đó làm cho người thày xưa được vinh danh quý trọng, kính cẩn ở mọi nơi, mọi lúc,trong mọi tầng lớp xã hội.

            Xin kính cẩn đề danh một số thày trong các thày xưa đáng kính :

Tượng thờ  Thày Chu Văn An, ở Văn Miếu Hà Nội.
                   Thày Chu Văn An -  Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của Thày là tấm gương sáng của thời phong kiến Việt Nam. Thày là một trong số rất ít bậc hiền nho được thờ ở Văn Miếu .Sự nghiệp của Thày được ghi lại trong văn bia ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám. 

Tượng thờ Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm
                          Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm -Thày được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều ( Lê – Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.
Hình Thày Nguyễn Đình Chiểu.
                  Thày Nguyễn Đình Chiểu - một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù tối và gặp lúc biến loạn mà vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Thày không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị.
 Ngày nay kinh tế, văn hoá, khoa hoc, giao lưu truyền thông phát triển mạnh mẽ. Nó kéo theo nhu cầu cuộc sống đa dạng, chuẩn đạo đức, tư duy, giao lưu phong phú đa chiều. Tất cả cùng tác động tới nghành giáo dục nhà trường, các thày cô giáo, học trò, gia đình và xã hội. Bức tranh giáo dục không còn đơn giản như xưa nữa mà là một bức tranh đẹp, rực rỡ nhiều màu sắc, thật đáng mừng.

Trong các cựu sinh viên k16 lâm học ĐHLN VN cũng có nhiều người đứng trong đội ngũ các Thày Cô giáo góp phần không nhỏ vào việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho ngành lâm nghiêp.

Nhân ngày nhà giáo, xin kính cẩn gửi lời chúc tất cả các Thày Cô giáo khắp mọi miền đất nước, trong ngành lâm nghiệp, là cựu sinh viên K16 lâm học ĐHLN VN luôn mạnh khoẻ, vui vẻ, hạnh phúc , thành đạt trong sự nghiệp vinh quang của mình. 


           

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

ĐỘNG VẬT RỪNG NHIỆT ĐỚI ( Video )

Cuộc Chiến Động Vật Rừng Nhiệt Đới




Thế giới động vật trên nhưng hòn đảo ở Đông Nam Á




Động vật hoang dã




Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

THÀY TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM


                 =================================================


                                          

Tượng thờ Thày Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
 (1491 - 1585 )








Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm  là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như  văn hoá Việt Nam trong thế kỷ 16. Thày được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc Triều ( Trịnh – Nguyễn phân tranh ) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên  khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều nhà Mạc  Thày được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi Thày  là Trạng Trình .Đạo Cao Đài  sau này đã phong thánh và suy tôn Thày là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn. Người đời coi Thày  là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ Thày và gọi chung là Sấm Trạng Trình.Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của Thày còn lưu lại đến ngày nay. Học trò của Thày có người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền.

A/THƠ VĂN CỦA THÀY

Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị. giàu chất liệu hiện thực, tính triết lý sâu xa của thời cuộc. truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế: đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng.

                Xin giới thiệu một số bài thơ của Thày :

1/Khôn dại

Ở đời có dại mới nên khôn,
Chớ dại ngu si, chớ quá khôn.
Khôn được ích mình đừng để dại.
Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn.
Khôn mà hiểm độc là khôn dại.
Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn.
Chớ cậy mình khôn cười kẻ dại.
Gặp thời dại cũng hoá nên khôn...

2/Của nặng hơn người

Ðời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không, nào thiết hỏi,
Sau vào gánh nặng, lại vui cười.
Anh anh, chú chú, mừng hơn hớn,
Rượu rượu, chè chè, thế tả tơi.
Người của, lấy cân ta thử nhắc,
Mới hay rằng của nặng hơn người.

3/Cnh Nhàn...

Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chỗ lao xao.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao.

4/Có phúc có phần

Trời sinh, trời ắt đã dành phần,
Tu hãy cho hiền, dạ có nhân.
Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ.
Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần.
Bạo hung chỉn đã gươm mài đá.
Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân.
Chớ có hại nhân mà ích kỷ.
Giấu người, khôn giấu được linh thần.

5/Thói Đời

Vụng khéo nào ai chẳng có nghề.
Khó khăn phải lụy đến thê nhi.
Ðược thời, thân thích chen chân đến.
Thất thế, hương lân ngoảnh mặt đi.

Thớt có hôi tanh, ruồi muỗi đậu.
Gan không mật mỡ, kiến bò chỉ.
Ðời nay những trọng người nhiều của.
Bằng đến tay không, mấy kẻ vì.

6/Thói Đời II

Thế gian biến đổi vũng nên đồi.
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử.
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi.

Xưa nay đều trọng người chân thực.
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.
Ở thế mới hay người bạc ác.
Giàu thì tìm đến khó tìm lui.

7/Dĩ Hòa Vi Quý

Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu.
Làm chi cho có sự đôi co.
Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn.
Ðây rằng đây phải, đấy không thua.

Duật nọ hãy còn đua với bạng.
Lươn kia hầu dễ kém chi cò.
Chữ rằng: Nhân dĩ hòa vi quý.
Vô sự thì hơn, kẻo phải lo.

8/Khuyên nh người đi

Chớ chê người ngắn cậy ta dài.
Hơn kém dù ai cũng mặc ai.
Vị nọ có bùi, không có ngọt.
Mùi kia chầy thắm, lại chầy phai.

Ðã hay phận định, đành yên phận.
Dẫu có tài hay, chớ cậy tài.
Quân tử ngẫm xem nơi xuất xử.
Ắt là khôn hết cả hòa hai.

B/ Sấm Trạng Trình.

Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết ra được những lời tiên tri trong tập Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng Trình. Sấm Trạng Trình được người đời xem như là một lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về tương lai. Có rất nhiều điểm trùng khớp với lịch sử. thể hiển cái tài, cái uy của Thày với đời, cũng là cái tài của người đời diễn dịch. Dẫu thế nào, cũng là tinh hoa văn hoá Việt, rất đáng trân trọng, kính phục. Cuối cùng, những lời sấm của Thày cũng vẫn quay trở về với ý nghĩa sâu xa như ngay trong lời cảm đề Thày đã viết: “Bí truyền cho con cháu - Dành hậu thế xem chơi”- Mọi ý nghĩa sâu xa hơn xin để độc giả suy ngẫm!           

 Xin trân trọng giới thiệu một số “Sấm Trạng Trình“

1/“Sấm” cho nhà Mạc, nhà Nguyễn, nhà Trịnh.
 
 Là một người thày lớn, Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò của Thày, người theo nhà Mạc, người theo nhà Lê. Ngoài triều Lê, Mạc, cả họ Trịnh, họ Nguyễn, những người thuộc các phe đối lập, cũng đều tôn kính Thày, thường xin ý kiến Thày về nhiều vấn đề hệ trọng. Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho tất cả. Họ đều thấy sự chỉ dẫn của Thày là đúng, nên Thày được xem như bậc đại hiền, một ông trạng tiên tri...


a/ Nhà Mạc :
 Lúc nhà Mạc sắp mất liền sai người đến hỏi Thày. Thày đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc rằng: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được 3 đời. Qủa nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng thì tồn tại được thêm 3 đời.

b/ Nhà Nguyễn :
  Ấy là năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, bèn sai người đến hỏi Thày, khi ấy Thày đã 77 tuổi đang ở ẩn tại am Bạch Vân. Thày không nói không rằng, cầm tay sứ giả dắt ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và bảo: “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được. Hiểu được ngầm ý ấy, Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, nhờ đó mà dựng nên nhà Nguyễn ở phương Nam. Sau này, nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Thày thành: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi nhưng quả đúng như lời sấm ban đầu của Thày, nhà Nguyễn chỉ có thể dung thân ở dải Hoành sơn chứ không thể tồn tại mãi mãi, nên triều đại nhà Nguyễn đã chấm dứt vào năm 1945.

c/ Nhà Trịnh :
       Triều đại thứ 3 cùng tồn tại khi ấy là nhà Trịnh, khi  vua Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thày  không nói năng gì mà dẫn sứ giả ra chùa thắp hương bảo: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm giống cũ mà gieo”. Rồi Thày lại sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản”, ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn. Trịnh Kiểm nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông.
    Về sau con cháu chúa Trịnh nhiều lần muốn đoạt ngôi vua Lê, nhưng Thày đều khuyên can khéo: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong ". Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm. Vì thế mà có câu: Lê tồn, Trịnh tại.
Tuy nhà Lê suy nhược, nhà Trịnh tóm thâu mọi quyền hành nhưng không có Lê, Trịnh không đứng vững được. Quả nhiên, đời vua Chiêu Thống ngai vàng Lê mất thì dòng Trịnh cũng chẳng còn ngôi chúa nữa.

2/ Những lời tiên tri:
a/ Truyện kể lại rằng : 
       Trước khi qua đời,Thày Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của Thày Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:
         "Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách
          Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn
          (Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi
         Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta)
     Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế.

b/ Truyện kể rằng :
      Đời Vua Minh Mạng (1820 - 1840) trong dân gian lưu truyền một câu sấm: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương" (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mạng vốn tính đa nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Trình. Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ:
         "Minh Mệnh thập tứ
          Thằng Trứ phá đền
          Phá đền thì lại làm đền
          Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai".
    
      Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng Trình.

c/ Có giai thoại kể rằng: 
     Tổng đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình. Trong lúc đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, quan xem xét cẩn thận mới biết là mộ của thân phụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vị quan Tổng đốc hết sức ngạc nhiên bởi Trạng Trình là thầy lý số hàng số 1 mà sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này, ông bèn bàn bạc với con cháu Trạng Trình và quyết định di dời lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm ý muốn sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Nào ngờ khi đào đến gần hộp quách, phát hiện thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: 
       “Bát thập niên tiền khi chung vũ tả.
        Bát thập niên hậu khí nhập ư trung”,
 Nghĩa là: 
      "Tám mươi năm trước khí tốt bên trái.
       Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong!"



-